Ngày 25/12, tại Hà Nội, Ủy ban Đối ngoại Quốc hội tổ chức hội nghị giám sát chuyên đề: “Tình hình thực hiện các điều ước quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu mà Việt Nam là thành viên.”
Đồng chí Nguyễn Văn Giàu, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, chủ trì hội nghị.
Phát biểu tại hội nghị, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Nguyễn Văn Giàu nêu rõ thời gian qua, Việt Nam tích cực thực hiện những cam kết quốc tế mạnh mẽ trong vấn đề phòng chống và thích ứng với biến đổi khí hậu ở cả phương diện quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên, công tác thực thi các cam kết quốc tế về phòng, chống biến đổi khí hậu của Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế.
Xuất phát từ thực tiễn, căn cứ triển khai Nghị quyết số 3198/NĐ-UBĐN 14 và Kế hoạch số 3199/KH-UBĐN của Ủy ban Đối ngoại Quốc hội về việc thành lập Đoàn giám sát và triển khai Chuyên đề giám sát Tình hình thực hiện các điều ước quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu mà Việt Nam là thành viên, hội nghị tập trung vào các nội dung liên quan đến vấn đề giám sát, những bất cập, hạn chế về chính sách, pháp luật, tổ chức thực hiện và những giải pháp khắc phục những bất cập, hạn chế.
Đồng thời, hội nghị đưa ra các khuyến nghị, đề xuất với Chính phủ, Quốc hội để nâng cao hiệu quả thực hiện các điều ước quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu mà Việt Nam là thành viên, tăng cường hơn nữa hiệu quả các hoạt động phòng ngừa, ứng phó với các biểu hiện cực đoan của biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
Việt Nam từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đánh giá tình hình triển khai thực hiện, kết quả và hiệu quả thực hiện các điều ước quốc tế đa phương và song phương về ứng phó biến đổi khí hậu mà Việt Nam là thành viên, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành cho biết đối với quốc tế, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một Bên tham gia Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC), Nghị định thư Kyoto, Thỏa thuận Paris, Công ước Viên, Nghị định thư Montreal và các bản sửa đổi có liên quan; tích cực tham gia đàm phán quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm với quốc tế về biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ô dôn.
Đối với trong nước, Việt Nam đã dần xây dựng, từng bước hoàn thiện và thực hiện hệ thống chính sách, chủ trương, đường lối, chương trình, dự án ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong khuôn khổ Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ Hà Lan về quản lý nước và thích ứng với biến đổi khí hậu đã thiết lập khuôn khổ hợp tác song phương giữa Việt Nam và Hà Lan trong ứng phó với biến đổi khí hậu và quản lý nước, mở ra cơ hội trao đổi hợp tác giữa các cơ quan chính phủ, các viện nghiên cứu và cộng đồng doanh nghiệp hai bên trên nguyên tắc chia sẻ mối quan tâm chung.
Tuy đạt được nhiều thành quả quan trọng, nhưng việc thực hiện các điều ước quốc tế ở Việt Nam cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể, tại các điều ước về biến đổi khí hậu thường phức tạp nên phải vừa xây dựng vừa hoàn thiện.
UNFCCC được thông qua năm 1992 nhưng chỉ mới là Công ước Khung, các phần chi tiết đến nay vẫn tiếp tục làm rõ. Thỏa thuận Paris phải mất 20 năm đàm phán để thông qua và mất 4 năm để xây dựng hướng dẫn chi tiết. Nghị định thư Montreal đã qua nhiều lần sửa đổi bổ sung…
Điều này gây khó khăn cho Việt Nam trong việc xây dựng các văn bản và triển khai thực hiện ở trong nước. Nhiều nội dung quy định tại Điều ước quốc tế nhưng chưa được quy định tại các văn bản tương đương ở Việt Nam nên hết sức khó khăn khi triển khai.
Nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu chưa được theo dõi, giám sát theo quy định chung tại Thỏa thuận Paris. Việc sử dụng nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến nguồn lực cho các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội khác.
Nâng cao hiệu quả thực hiện các điều ước quốc tế
Để nâng cao hiệu quả thực hiện các điều ước quốc tế, các bộ, ngành kiến nghị, cần rà soát, điều chỉnh kịp thời các quy định tại Điều 6 Luật Điều ước quốc tế và áp dụng đầy đủ quy định trong thực tiễn; thay đổi mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong ứng phó với biến đổi khí hậu của tất cả các cấp, ngành, địa phương, cá nhân trong xã hội.
Các bộ, ngành kiến nghị với Quốc hội về việc trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh, các Nghị quyết về chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội cần có sự tích hợp, lồng ghép nội dung biến đổi khí hậu vào Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2021-2030) và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (2021-2025); xem xét ưu tiên bố trí và sử dụng có hiệu quả kinh phí triển khai thực hiện những dự án cấp thiết ứng phó với biến đổi khí hậu, dần hình thành mục chi riêng về ứng phó với biến đổi khí hậu trong hệ thống mục lục ngân sách nhà nước nhằm thực hiện yêu cầu của Thỏa thuận Paris “Điều chỉnh dòng tài chính phù hợp với lộ trình phát triển phát thải thấp và thích nghi khí hậu.”
Các bộ, ngành kiến nghị với Chính phủ, Ủy ban quốc gia về biến đổi khí hậu xem xét việc tư vấn cho Chính phủ về lồng ghép biến đổi khí hậu vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội do Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương thực hiện, bảo đảm phát huy lợi ích tổng hợp và hạn chế các tác động tiêu cực, nhằm tăng tính bền vững của mỗi hoạt động phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Cụ thể, Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tập trung hoàn thành việc rà soát, cập nhật báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam, trong đó cung cấp các thông tin cần thiết để thực hiện công khai, minh bạch, nỗ lực thực hiện theo lộ trình giảm phát thải kể từ năm 2021 trở đi.
Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm đề xuất các cơ chế, chính sách chuẩn bị, huy động nguồn lực, từng bước chủ động thực hiện cam kết với quốc tế cũng như các hành động cấp bách trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam thời gian tới.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện tổ chức, bộ máy thực hiện công tác ứng phó với biến đổi khí hậu của các bộ, ngành, địa phương; tăng cường năng lực cho các cán bộ chuyên môn để tiếp cận, tham gia triển khai thực hiện tốt các quy định quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu./.